Sắt thép BLÓG

Sắt thép, thông tin thị trường, giá cả và các biến động của sắt thép Việt Nam và thế giới
Showing posts with label Sắt thép Việt Nam. Show all posts
Showing posts with label Sắt thép Việt Nam. Show all posts

Sản xuất thép không cần đào quặng

Công ty cổ phần Thương mại Thái Hưng đang lập Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất tinh quặng sắt, sắt xốp, thép từ bùn đỏ với nguyên liệu đầu vào là bùn đỏ của Nhà máy alumin Lâm Đồng.

Dự án này được lập trên cơ sở kết quả của Đề tài xây dựng quy trình công nghệ sản xuất tinh quặng sắt, sắt xốp, thép, gạch không nung từ bùn đỏ do Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chủ trì, với sự thực hiện của Viện Hóa học (Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Kinh phí để thực hiện Dự án là 13,5 tỷ đồng, trong thời gian 36 tháng. Đề tài đã được Công ty cổ phần Thương mại Thái Hưng hỗ trợ thử nghiệm trên quy mô công nghiệp từ 42 đến 200 tấn bùn đỏ.

Dự án của CTCP Thương mại Thái Hưng sẽ sản xuất tinh quặng sắt, thép từ bùn đỏ của Nhà máy alumin Lâm Đồng


Kết quả nghiên cứu Đề tài đang được Viện Hóa học sử dụng để đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp bằng sáng chế “Quy trình sản xuất sắt xốp từ bùn đỏ”.

Là bã thải của quá trình sản xuất nhôm từ quặng bauxite theo phương pháp Bayer, do tính kiềm cao và lượng bùn thải lớn, bùn đỏ là tác nhân gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nếu không được quản lý tốt. Dẫu vậy, trong bùn đỏ lại có chứa hàm lượng sắt cao. Tại Dự án alumin Lâm Đồng, hàm lượng Fe2O3 dao động từ 46% đến 53% và đây chính là loại quặng sắt nghèo, có khối lượng lớn có thể phục vụ sản xuất gang và thép.

Với quy hoạch phát triển bauxite ở Tây Nguyên, hai nhà máy alumin Nhân Cơ và Tân Rai có lượng bùn đỏ thải ra là 1,2 - 1,3 triệu tấn/năm.

Nhằm bảo vệ môi trường và phát triển ngành công nghiệp chế biến, khai thác bauxite tại Tây Nguyên theo hướng phát triển bền vững, việc nghiên cứu các giải pháp công nghệ xử lý bùn đỏ thành các sản phẩm hữu ích như thép, vật liệu xây dựng không nung... phù hợp với điều kiện Việt Nam được Chính phủ đặc biệt coi trọng trong quá trình triển khai thí điểm hai dự án khai thác bauxite trên.

Viện Hóa học đã tiến hành xây dựng công nghệ sản xuất thép từ bùn đỏ với quy mô phòng thí nghiệm từ năm 2009. Sau hơn 2 năm nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ, với sự hợp tác của Công ty cổ phần Thép Thái Hưng, năm 2012, nhóm nghiên cứu do TS. Vũ Đức Lợi chủ trì đã từng bước nâng trọng lượng mỗi mẻ thử nghiệm quy mô phòng thí nghiệm từ 1 tấn, 2,5 tấn, 5 tấn, rồi 10 tấn bùn đỏ. Qua từng mẻ, công nghệ được điều chỉnh, hiệu suất thu hồi sắt không ngừng tăng lên. Đến mẻ chạy thử 20 tấn và 200 tấn bùn đỏ mới đây, thu hồi sắt đã đạt hơn 70%.

Kết quả sản xuất trên quy mô công nghiệp cho thấy, từ 2,4 tấn bùn đỏ khô sẽ thu được 1 tấn tinh quặng sắt có hàm lượng T-Fe 62% với giá thị trường khoảng 1,9 triệu đồng/tấn. Như vậy, với chi phí khoảng 1,4 triệu đồng/tấn, cộng thêm chi phí bảo vệ môi trường, sáng chế, khấu hao máy móc... thì kết quả trên hứa hẹn một hướng đi nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành công nghiệp alumin - nhôm cũng như xử lý tốt hơn vấn đề môi trường.

Với các kết quả này và thực tế Công ty Thái Hưng đang lập Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất tinh quặng sắt, sắt xốp, thép từ bùn đỏ với nguyên liệu đầu vào là bùn đỏ của Nhà máy alumin Lâm Đồng, xem ra, câu chuyện bùn đỏ từ quá trình chế biến quặng bauxite sẽ không còn là nỗi ám ảnh. Thậm chí, đây sẽ là một nguồn tài nguyên mới cho những doanh nghiệp biết tận dụng.

Hai dự án khai thác và chế biến quặng bauxite Tân Rai và Nhân Cơ hiện cũng được Bộ Công thương tìm kiếm các cơ chế liên quan để sớm hoàn vốn, phục vụ mục tiêu cổ phần hóa trong thời gian tới.

Hoàng Nam

Read More...

Thép nội tồn kho lớn, vẫn tăng nhập khẩu thép ngoại

Hiện nay trong khi các doanh nghiệp thép nội đang điêu đứng khi cung vượt xa cầu, thì việc nhập khẩu thép ngoại với giá thành rẻ vào Việt Nam càng khiến cho ngành thép càng trở nên khó khăn.



Hiện nay, trong lúc các doanh nghiệp (DN) thép nội phải vật lộn với khó khăn chất chồng do thị trường bất động sản đóng băng từ nhiều năm qua, sức tiêu thụ kém thì hàng nhập khẩu vẫn ồ ạt tràn vào cạnh tranh với giá rẻ.

Theo số liệu của Bộ Công Thương, tính đến cuối tháng 8/2014, sản lượng các mặt hàng thép sản xuất trong nước đều ở mức cao, so với cùng kỳ năm 2013. Thép thô đạt 1.950,9 ngàn tấn, giảm 0,01%; thép cán đạt 2.310,9 ngàn tấn, tăng 22,8%; thép thanh, thép góc đạt 2.288 ngàn tấn, tăng 5,1%. Tuy nhiên, ngược với con số tăng trưởng của việc sản xuất, tình hình tiêu thụ mặt hàng này lại đạt mức thấp do kinh tế trong nước vẫn còn khó khăn.


Các doanh nghiệp sản xuất thép nội đang phải cầm chừng. Ảnh: HNM

Nhu cầu xây dựng khu vực dân dụng cũng giảm sút. Sức mua kém, cộng thêm phải cạnh tranh với thép Trung Quốc nhập khẩu nên các nhà sản xuất trong nước phải giảm giá bán. Thậm chí, không cầm cự nổi, một số nhà máy sản xuất sắt, thép khu vực phía Bắc phải đóng cửa. Một số nhà đầu tư lớn, theo kế hoạch ban đầu, sẽ rót hàng tỉ USD xây dựng nhà máy thép ở Việt Nam, nay cũng phải dừng và rút vốn đầu tư.

Mặc dù thép nội đang trong gia đoạn khó khăn khi cung vượt cầu, thì theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lượng sắt thép nhập khẩu trong tháng ước khoảng 1.000 tấn, trị giá 664 triệu USD, giảm nhẹ cả về lượng và giá trị kim ngach so với tháng trước. Tuy nhiên tính chung 9 tháng đầu năm 2014, lượng sắt thép nhập khẩu lên tới 8,06 triệu tấn với giá trị gần 5,4 tỷ USD; tăng 11,4% về lượng và tăng 7,5% về giá trị kim ngạch so với cùng kỳ.

Mới đây, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cũng cho thấy một bức tranh tương tự khi mà nhập siêu thép trong 8 tháng đầu năm đã lên tới 6,951 tấn, tương đương nhập siêu 3,817 tỷ USD. Thép nhập khẩu tăng mạnh đã tạo áp lực lớn đến các DN sản xuất thép trong nước. Cũng theo VSA, trong tháng 9, sản xuất thép xây dựng của các DN thành viên chỉ đạt 431.941 tấn, giảm 2,14% so với tháng trước dù vẫn tăng tới 24,2% so với tháng 9/2013.

Thanh Hằng (TH)

Read More...

Bộ Công Thương phản hồi tin ngành thép sẽ bị phá sản khi ký VCUFTA


(Ảnh minh họa: Hoàng Hải/TTXVN)

Ngày 12/9, theo Vụ Thị trường châu Âu thuộc Bộ Công Thương, thông tin về ngành thép nội sẽ bị phá sản khi Hiệp định FTA giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan Nga-Belarus-Kazakshtan (VCUFTA) được ký kết là hoàn toàn không có căn cứ.

Theo Thị trường châu Âu, Hiệp định VCUFTA được trông đợi sẽ tạo cơ hội thúc đẩy việc xuất khẩu mạnh mẽ hàng hóa Việt Nam sang thị trường các nước Nga và SNG vốn có nhiều tiềm năng nhưng thực tế hoạt động thương mại giữa hai b ên c òn đang hạn chế.

Trong quá trình đàm phán Hiệp định này, phía Liên minh Hải quan (Liên minh) cũng đặt ưu tiên hàng đầu việc xuất khẩu sang Việt Nam các mặt hàng công nghiệp như sắt thép, săm lốp, máy móc thiết bị...

Việc đàm phán mở cửa thị trường sẽ trên cơ sở cân bằng lợi ích tổng thể giữa hai bên; trong đó Việt Nam đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu các mặt hàng dệt may, thủy sản, da giày và một số loại nông sản khác mà Việt Nam có ưu thế. Riêng đối với các mặt hàng thép, trong số nhiều mặt hàng sắt thép phía Liên minh yêu cầu ưu tiên cắt giảm thuế quan, chỉ có một số loại thuộc danh mục do Hiệp hội Thép đề nghị bảo lưu lộ trình cắt giảm thuế.

Như vậy về tổng thể, phía Liên minh có thể cung cấp cho ta nhiều mặt hàng sắt thép mà Việt Nam không sản xuất, phía Liên minh sẽ phải tự cạnh tranh với các đối tác khác trên thị trường Việt Nam. Đồng thời, hai bên đều thống nhất việc đàm phán phải theo nguyên tắc trao đổi có đi có lại, xét trên tổng thể cân bằng lợi ích chung; cho phép có lộ trình cắt giảm thuế nhất định đối với một số mặt hàng thuộc Nhóm các mặt hàng nhạy cảm của các bên (tức là không phải đưa ngay về mức thuế suất 0% khi Hiệp định có hiệu lực).

Đối với Việt Nam, cam kết trong Hiệp định VCUFTA này sẽ không gây ảnh hưởng tới các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã và đang đàm phán.

Cũng theo Vụ Thị trường châu Âu, Nga là đất nước rộng lớn và những trung tâm sản xuất thép của Nga tập trung ở miền Trung nước Nga, cách Viễn Đông xa hơn khoảng cách từ Viễn Đông đến Việt Nam.

Như vậy, việc chuyên chở sắt thép từ các nhà máy này, qua Viễn Đông và về Việt Nam sẽ rất khó cạnh tranh được với các mặt hàng sắt thép tương tự đang lưu hành trên thị trường Việt Nam./.

Theo: Giường Tầng, Cỏ Nhân Tạo Trần VĂn

Read More...

Bộ Công Thương, Hiệp hội Thép 'vênh' nhau

Bộ Công Thương vừa có văn bản khẳng định doanh nghiệp (DN) thép nội lo lắng thiếu cơ sở trong khi Hiệp hội Thép VN (VSA) vẫn cho rằng DN sẽ “chết yểu” nếu cắt giảm đồng loạt thuế nhập khẩu thép từ Nga.



Theo Bộ Công Thương, dù giảm thuế thép Nga vẫn khó cạnh tranh được với thép trong nước. Ảnh: Phong Cầm.

Bộ nói không

Truyền thông ngày 9/9 đã đưa tin về lo lắng của các DN sản xuất thép trong nước trước nguy cơ phá sản, khi Nga, Belarus, Kazakhstan đề nghị Việt Nam cắt giảm thuế nhập khẩu sắt thép từ khu vực này.

Nếu được chấp thuận, việc cắt giảm thuế sẽ thực hiện ngay khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Hải quan Nga, Belarus, Kazakhstan (VCUFTA) có hiệu lực (dự kiến sẽ ký vào cuối năm nay).

Vụ Thị trường Châu Âu (Bộ Công Thương) cho biết: Hiệp định VCUFTA được trông đợi sẽ tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu mạnh hàng Việt Nam sang thị trường các nước Nga và SNG.

Trong quá trình đàm phán Hiệp định này, phía Liên minh Hải quan ưu tiên xuất khẩu sang Việt Nam các mặt hàng công nghiệp (như sắt thép, săm lốp, máy móc thiết bị). Với Việt Nam, quan tâm đến xuất khẩu dệt may, thủy sản, da giày và một số loại nông sản khác.

Theo Bộ Công Thương, trong số 167 mặt hàng sắt thép phía Liên minh Hải quan yêu cầu cắt giảm thuế quan ngay, chỉ có một số loại thuộc danh mục VSA đề nghị bảo lưu lộ trình cắt giảm thuế.

“Về tổng thể, phía Liên minh Hải quan có thể cung cấp cho ta nhiều mặt hàng sắt thép trong nước chưa sản xuất được, và cạnh tranh với các đối tác khác trên thị trường Việt Nam”, Bộ Công Thương cho biết. Theo Bộ này, việc vận chuyển sắt thép từ các nhà máy qua Viễn Đông (Nga) và về Việt Nam sẽ rất khó cạnh tranh với sắt thép trong nước.

Ngoài ra, Bộ Công Thương cho rằng, nguyên tắc đàm phán là trao đổi có đi có lại, xét trên tổng thể cân bằng lợi ích chung; cho phép có lộ trình cắt giảm thuế nhất định đối với một số mặt hàng thuộc nhóm mặt hàng nhạy cảm của các bên (tức không đưa ngay về mức thuế suất 0% khi Hiệp định có hiệu lực).

Hiệp hội bảo có

“Các DN thép cần thêm thời gian được bảo hộ để chuẩn bị, đặc biệt với các sản phẩm thép trong nước đã sản xuất được. Bảo hộ chỉ là biện pháp tình thế, về lâu dài ngành thép phải cố gắng tự vươn lên”.

Ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch VSA


Chiều 15/9, ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch VSA cho biết, các DN thép Việt hiện còn non trẻ, quy mô nhỏ nên giá thành sản phẩm cao, khó cạnh tranh với những nước có ngành thép lâu đời như Nga, Trung Quốc.

Theo VSA, tuy số mặt hàng cần bảo hộ không nhiều, nhưng theo ông Sưa, đây đều là những mặt hàng chính các DN thép trong nước đang sản xuất, với 4 nhóm chính: Thép xây dựng, thép tấm cán nguội, thép ống hàn và kẽm mạ màu. Những mặt hàng này chiếm gần toàn bộ sản lượng các nhà máy trong nước, không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, một số còn xuất khẩu.

Về quãng đường vận chuyển thép từ Nga tới Việt Nam, theo lãnh đạo VSA, cảng cực Đông của Nga cách cảng Đại Liên (Trung Quốc) không xa. Do đó, ông Sưa ước tính phí vận chuyển thép Nga về Việt Nam chỉ khoảng 20 USD/tấn.

GS.TS Đặng Đình Đào, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển (ĐH Kinh tế Quốc dân) cho rằng, sắt thép trong nước đã được bảo hộ quá lâu, sản phẩm đơn điệu, giá cao... giờ đã đến lúc cần xem xét lại.

Theo GS Đào, năm 2013, tổng sản lượng thép Việt Nam hơn 9,55 triệu tấn các loại, nhưng phải nhập 9,5 triệu tấn nguyên phụ liệu. GS Đào so sánh mức ưu đãi cho sắt thép không khác gì ngành sản xuất ô tô, xăng dầu, điện...

Theo Tiền phong

Read More...

Ngành thép Việt làm gì trước sân chơi lớn?

Trước những tranh luận về phương án thuế nhập khẩu của Việt Nam trong đàm phán Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh Hải quan Nga, Belarus, Kazakhstan (VCUFTA) và chuẩn bị lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện cam kết các FTA đối với ngành sắt thép sắp tới, phóng viên Báo điện tử Xây dựng đã có cuộc phỏng vấn Chủ tịch Hiệp hội thép Việt Nam - ông Hồ Nghĩa Dũng xung quanh vấn đề này.

Thưa ông, vừa qua có những tranh luận về thông tin liên quan đến ngành Thép đứng trước nguy cơ phá sản hàng loạt khi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan (VCUFTA) có hiệu lực. Bộ Công Thương khẳng định doanh nghiệp (DN) thép nội lo lắng thiếu cơ sở. Ông có ý kiến gì với khẳng định này?

Nếu đưa về ngay thuế suất 0% trong năm 2015, các DN thép có mặt hàng đã sản xuất được trong nước sẽ không cạnh tranh nổi với các mặt hàng thép nhập khẩu từ Nga. Do đó, chúng ta phải có công đoạn, lộ trình đối với những mặt hàng sản xuất trong nước. Lý do vì sao?

Hiện nay các loại như phôi thép, thép tấm cán nguội, lá cán nguội, ống thép, các loại tôn mạ, tôn mạ phủ màu được các DN thép Việt Nam sản xuất sản xuất trong nước. Đưa ngay về thuế 0% nhiều DN thép có nguy cơ dừng sx và phá sản vì ko cạnh tranh nổi. Bởi vậy Hiệp hội đã có ý kiến là vì thế.


Ông Hồ Nghĩa Dũng - Chủ tịch Hiệp hội thép Việt Nam

So sánh nền sản xuất thép của 2 nước, đơn cử là Nga. Đây là nước có ngành sản xuất thép lớn thứ 5 thế giới với sản lượng 63 - 64triệu tấn/năm và xuất khẩu khoảng 23 triệu tấn hàng năm. Nga là nước có nền sản xuất với quy mô lớn với 70% sản xuất theo công nghệ lò cao, sản xuất từ quặng và đặc biệt có lợi thế về quặng tại chỗ, khí thiên nhiên dồi dào. Trong khi đó ở Việt Nam, thép xây dựng năng lực sản xuất chỉ từ 10triệu tấn/năm nhưng thực tế chỉ sản xuất được 5-6 triệu tấn hàng năm do cung cầu mất cân đối.

Nếu như Nga có lợi thế canh tranh là công nghệ hiện đại, sản xuất 70% từ công nghệ lớn, liên hợp lò cao, theo chu trình dài thì Việt Nam sản xuất theo chu trình ngắn thép được sản xuất từ lò điện bằng phế liệu, nền công nghệ thép chỉ phát triển 10 năm trở lại đây nay. So với thế giới Việt Nam đứng ở vị trí 26, tại Đông Nam Á, năng lực sản xuất cũng nhất nhì tùy từng loại, tiêu thụ xếp thứ 3.

Những yếu tố trên đã cho thấy khả năng cạnh tranh thép của Việt Nam rất là khó thực hiện ngay điều này. Cho nên VSA đã đề xuất bảo vệ có chọn lọc 25/167 mặt hàng trong nước sản xuất được cần có lộ trình từ 5-10 năm.

Cụ thể kiến nghị về lộ trình đó như thế nào, thưa ông?

Vừa qua, với một vài lần tham vấn của VSA thì bản thân Bộ Công Thương (BCT) cũng đã tham khảo, tiếp thu ý kiến và trong công văn trả lời mới đây BCT đang xem khả năng đàm phán cho một số mặt hàng sản xuất trong nước. Dù BCT khẳng định không ảnh hưởng đến ngành thép nhưng phải hiểu là không ảnh hưởng đến ngành thép ngay nếu như BCT đàm phán lộ trình bảo vệ có thời hạn thắng lợi. Nghĩa là trong các mặt hàng đã sản xuất được thì phải có sự bảo hộ trong lộ trình 5- 10 năm. Và trong 10 năm đó các DN Việt Nam phải có các biện pháp, phương án của mình để cạnh tranh. Nếu không ngành thép phải chấp nhận “cuộc chơi” này.



Đối với các mặt hàng trong nước không sản xuất được thì có thể áp thuế 0% như thép hợp kim, thép tấm, thép cán nóng… Sản phẩm thép của bất cứ nước nào vào Việt Nam thì đều phải cạnh tranh nhau. Vì đó không phải là mặt hàng VSA kiến nghị. Mặt hàng sản xuất trong nước thì mới cần thiết phải có ngay lộ trình để bảo vệ. Hiện VSA cũng cử các chuyên viên đang tham vấn với các Bộ, cơ quan. Nếu đạt được thỏa thuận đó thì VSA sẽ ko có kiến nghị về chuyện ngành thép phá sản ngay. Toàn bộ câu chuyện dẫn dắt là vậy.

Tất nhiên trong cuộc chơi này, đi vào hội nhập thì phải chấp nhận thuế sẽ dần dần giảm xuống. Điều quan trọng là chúng ta cần có lộ trình, hàng rào bảo vệ như thế nào cho hợp lý mà thôi.

Khi vào thị trường tự do thì Việt Nam “hi sinh” thị trường mặt hàng này thì các nước đối tác cũng “hi sinh” mặt hàng khác, ví dụ Việt Nam đang phải tìm cách tiếp cận vào Nga cho thị trường nông sản. Ngành thép là ngành công nghiệp nền tảng của Việt Nam, sức cạnh tranh chưa lớn thì cần thiết phải bảo vệ có lộ trình.

Vậy tiến trình cho việc hội nhập đó trong vòng 5 năm tới sẽ như thế nào?

Trong giai đoạn 2015-2020, phần lớn các Hiệp định Thương mại tự do (FTAs) mà Việt Nam đã tham gia (ASEAN, ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Nhật Bản, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Úc - Niu Dilân) đối với ngành hàng sắt thép sẽ bước sang giai đoạn cắt giảm và xóa bỏ thuế quan sâu… Do vậy, việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan giai đoạn tới dự kiến sẽ có tác động đến ngành thép xây dựng, ống thép, tôn mạ kim loại và sơn phủ màu…

Bây giờ Việt Nam cũng đã dần dần tham gia WTO - một sân chơi lớn, bắt đầu hội nhập sâu vào thị trường EU. Các hiệp định thương mại sẽ bắt đầu lộ trình từ 2018. Kể từ 2012 thuế đã giảm sâu nhưng chúng ta phải chấp nhận “cuộc chơi” này.

Tuy nhiên VSA không phải là cơ quan nhà nước để chỉ đạo định hướng cho các ngành nhưng với tính chất của hiệp hội VSA cần cung cấp đầy đủ thông tin, xây dựng định hướng, chiến lược để thực hiện tốt những quy hoạch của nhà nước, cụ thể là của BCT đối với ngành thép.

Nhằm phát triển ngành thép, VSA khuyến cáo các DN thực hiện các quy hoạch, trọng đó quan trọng nhất là nhận rõ được sự mất cân đối của thị trường, từ đó hạn chế không đầu tư vào các sản phẩm thép trong nước đang dư thừa. Điều cần làm là thực hiện tốt bài toán về sản lượng và chất lượng, đi sâu vào chất lượng chứ không phải nâng cao công suất toàn ngành đồi với thép xây dựng.



Hiện nay thép cán đang dư thừa, công suất sản xuất 10 triệu tấn/năm, bây giờ chỉ thiêu thụ 5-6 triệu tấn/năm; tương tự thép ống, tôn mạ, cán nguội chỉ tiêu thụ đc 50- 60% khả năng sản xuất.

Vì các điểm bất lợi trên VSA đã định hướng không tăng năng lực mà phải làm sao tăng hiện đại hóa công nghệ, nâng cao và cạnh tranh bằng chất lượng, giá thành. Mặt khác cũng khuyến cáo các DN dần dần loại bỏ công nghệ quy mô nhỏ, lạc hậu, tiêu hao năng lượng lớn, ô nhiễm và ảnh hưởng môi trường.

Trong quy hoạch của Chính phủ đã định rõ quy mô công nghệ nào, đến đâu thì không được đầu tư mới. Cụ thể công nghệ lò cao ở vùng biển thì phải từ 700 khối, nội địa từ 500 khối, lò thép hồ quang đầu tư từ 70 tấn, thép cán quy mô 500 nghìn tấn trở lên. Chính việc đầu tư công nghệ hiện đại và quy mô lớn thì mới tăng sức cạnh tranh. Với tất cả định hứớng như vậy VSA khuyến cáo các DN phải theo sát lộ trình WTO thì mới hành động. Đến thời điểm đó không kiến nghị được thì phải chấp nhận thực tế cuộc chơi.

Ra hội nhập sâu thì ngành thép phải chấp nhận thuế bằng 0%, nhưng thực hiện thuế thấp như vậy thì phải có quy định về hàng rào kỹ thuật bảo vệ các nhà sản xuất trong nước đồng thời tạo điều kiện cho họ. Theo kinh nghiệm các nước phát triển, người ta rất tự do trong thương mại nhưng không phải dễ gì vào được đất nước họ. Bởi lẽ họ có hàng rào kỹ thuật phòng vệ rất chặt chẽ.

Gần đây thép Việt Nam đã bị kiện bán phá giá đối với một số mặt hàng thép xuất đi Úc, Mỹ, Canada, Indonesia, Hàn Quốc và ngược lại Bộ Công Thương vừa ban hành Quyết định số 7896/QĐ-BCT về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội nhập khẩu vào Việt Nam từ các nước/vùng lãnh thổ Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia và Indonesia.

“Cuộc chơi” này phải thực hiện nghiêm túc thôi vì đã đến lúc Việt Nam phải áp dụng đúng luật pháp quốc tế để tăng khả năng cạnh tranh, đồng thới cũng phải am hiểu luật pháp đó để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp Việt Nam. Tham gia hội nhập sâu phải biết rõ năng lực và thực chất của ngành mình thì sẽ chủ động được trước mọi “sân chơi” .

VSA cũng thực hiện nhiều hội thảo, tham gia vào các quy hoạch của BCT, tham gia vào các cơ chế chính sách đối với ngành thép, các vụ giải quyết tranh tụng thương mại trong và ngoài nước… Những hoạt động đó biểu hiện tinh thần chuẩn bị cho của ngành thép trong nước khi bước vào hội nhập sâu vào sân chơi này.



BCT cho rằng, về mặt địa lý, Nga là đất nước rộng lớn và những trung tâm sản xuất thép của Nga tập trung ở miền Trung nước Nga, cách Viễn Đông xa hơn khoảng cách từ Viễn Đông đến Việt Nam. Như vậy, việc chuyên chở sắt thép từ các nhà máy này, qua Viễn Đông và về Việt Nam sẽ rất khó cạnh tranh được với các mặt hàng sắt thép tương tự đang lưu hành trên thị trường Việt Nam, là những sản phẩm ngành thép lo ngại cạnh tranh. Ông có ý kiến gì về nhận định này?

Về quãng đường vận chuyển thép từ vùng Viễn Đông tới Việt Nam, giá thành không cao là mấy so với từ Trung Quốc. Chúng ta phải biết rằng Nga có nguồn tài nguyên tại chỗ, trong khi đó Việt Nam phải nhập, quặng sắt sản xuất chỉ khoảng 10-12%, 80% thép bằng lò điện, chúng ta nhập thép vụn (phế liệu) từ Nhật, Nga, Mỹ, Hàn Quốc. Nếu nói sản phẩm thép của Nga phải vận chuyển từ xa thì Việt Nam cũng phải nhập phế liệu từ xa. Từng có thời điểm thuế còn thấp, thép nhập từ Nga rẻ đến mức người ta nhập thép tấm về, cắt đi cán thành thép xây dựng.

Cho nên việc cảnh giác là ko thừa. Việc vận chuyển xa đó ko phải là ko có lý nhưng cũng ko đơn giản như đánh giá vậy mà còn nhiều yếu tố khác.

Vậy các nhà sản xuất đã chuẩn bị thị trường nào cho cuộc chơi này và các nhà nhập khẩu phản ứng ra sao, thưa ông?

Ngành xây dựng bị ảnh hưởng đã kéo theo ngành thép bị ảnh hưởng mạnh trong thời gian qua. Thị trường thép xuất khẩu thì khó khăn hơn xi măng. Thị trường thép truyền thống mạnh các DN của chúng ta không có. Thép xây dựng xuất khẩu sang Lào, Campuchia, Miến Điện thì cũng chỉ vài trăm nghìn tấn/năm.Thép ống xuất khẩu sang Úc, Mỹ, châu Âu nhưng số lượng cũng chỉ tương tự. Sản phẩm xuất nhiều chủ yếu là tôn mạ, tôn phủ màu của Tập đoàn Hoa Sen sang thị trường Úc, Thái Lan, Indonesia tổng 3triệu tấn/năm so với sản lượng tiêu thụ của cả nước là11triệu tấn/năm.



Vừa qua có một số nước kiện Việt Nam trong việc bán phá giá một số mặt hàng thép thì VSA cũng tham gia và xem xét vì việc chống bán phá giá của nước ngoài đối với Việt Nam. Cũng giống như mình thôi, thực ra cũng có lý của họ vì tự nhiên thấy có lượng thép xuất hiện nhiều vào nội địa thì họ phải có động thái.

Việc áp dụng chống bán phá giá với 4 nước Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Indonesia vào lãnh thổ Việt Nam là thép không gỉ. Nhưng các nước này phải chấp nhận vì đó là điều chính đáng.

Tuy nhiên, đối với các nhà nhập khẩu thép trong nước cũng có ý kiến. Các DN sản xuất thì hài lòng nhưng nhà nhập khẩu lên tiếng vì họ nhập khẩu thẳng các chủng loại cùng với các nhà sản xuất trong nước giờ không được giá rẻ như trước nên họ kêu bị thiệt thòi và người tiêu dùng cũng thiệt thòi theo.

Ai cũng có lý, nhưng cơ bản là phải theo luật. Các nước họ họ bán phá giá thực sự thì phải bảo vệ các sản phẩm của mình, bảo vệ DN trong nước mới là lâu dài. Không thể nào có lý khi chúng ta tiêu dùng với giá rẻ nhưng lại vi phạm luật chung đã quy định.
Hồng Anh (Báo Xây dựng)

Tags: Cỏ Nhân Tạo, Lưới Chắn Bóng, Trần Văn Sports

Read More...

Nhập khẩu phế liệu phải kí quỹ, doanh nghiệp thép 'kêu trời'

Đề xuất doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu phải kí quỹ với số tiền bằng 80% tổng giá trị lô hàng phế liệu là quá lớn. Điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến các DN, nhất là DN ngành thép.



Nếu áp dụng quy định của Dự thảo, số tiền kí quỹ nhập khẩu phế liệu của ngành thép sẽ là hơn 1 tỷ USD/năm. Ảnh: ST.

Đây là chia sẻ của ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội thép Việt Nam xung quanh những quy định tại Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, được trình bày tại Hội thảo lấy ý kiến Nghị định hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức.

Khó khăn sẽ chồng chất khó khăn

Đại diện Hiệp hội Thép Việt Nam cho hay, năm 2013, toàn ngành thép sản xuất 5,5 triệu tấn thép thô. Năm nay, dự tính sản lượng sẽ đạt 6 triệu tấn thép thô. Trong đó, 80-90% sản lượng thép thô luyện bằng công nghệ lò điện hồ quang với nguyên liệu chính là sắt thép phế liệu.

Trên thực tế, mỗi năm toàn ngành thép phải nhập khẩu 3,5 triệu tấn sắt thép phế liệu với tổng số tiền lên đến hơn 1,4 tỷ USD. "Nếu như vậy, theo tính toán của chúng tôi, số tiền kí quỹ nhập khẩu phế liệu sẽ là hơn 1 tỷ USD/năm. Thực sự đây là gánh nặng quá lớn đối với các DN ngành thép, nhất là trong bối cảnh khó khăn chồng chất khó khăn như hiện nay”, ông Sưa nhấn mạnh.

Bên cạnh ý kiến của đại diện ngành thép, đại diện Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam cũng có ý kiến lo ngại cho tình hình sản xuất kinh doanh của các DN trong ngành nếu như áp dụng quy định như trong Dự thảo Luật.

"Phải kí Quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu sẽ là gánh nặng và thiệt thòi về tài chính cho DN", ông Trần Miên, nguyên trưởng ban Môi trường, Tập đoàn Công nghiệp Than và khoáng sản Việt Nam nói.

Bên cạnh đó, ông Miên phân tích, DN phải lo hai khoản tiền để thực hiện cải tạo, phục hồi môi trường là ký quỹ và thực hiện đề án cải tạo. Trong khi đó, tiền hoàn trả với lãi suất thấp hơn nhiều so với lãi suất vay tín dụng, tiền ký quỹ không được quay vòng để phục vụ sản xuất. Do vậy, cần có các quy định hướng dẫn để giảm gánh nặng cho DN về tài chính.

Ký quỹ nên càng thấp càng tốt

Chính vì vậy, nhiều DN cho rằng, trong quy định cải tạo, phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản, cơ quan chức năng nên xem xét việc loại bỏ hoặc cắt giảm mức giá trị tiền ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu.

Trước những kiến nghị đó, đại diện Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT) cho biết, Ban soạn thảo dự thảo đã cân nhắc giảm mức giá trị tiền ký quỹ về 50% thay vì 80% như trước. Tuy nhiên, theo ông Sưa, với mức ký quỹ 50%, số tiền mà các DN ký quỹ cũng sẽ tương đương 500 triệu USD/năm.

"Trong khi DN thép trong nước chủ yếu có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng cạnh tranh thấp. Nhất là trong bối cảnh chúng ta đang tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do, thì quy định trên sẽ làm giảm cạnh tranh của sản phẩm thép trong nước. Nên hạ mức ký quỹ này ở mức từ 1 - 5% để giúp cho ngành thép đứng vững được trong bối cảnh hội nhập", ông Sưa nói.

Phát biểu tại Hội thảo, đại diện các đơn vị đều chung một kiến nghị là quy định mức kí quỹ nhập khẩu phế liệu ở mức càng thấp càng tốt, để giảm bớt khó khăn cho DN.

Các DN cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước cần "gần" hơn nữa với DN trên cơ sở bảo vệ môi trường và lợi ích của DN. Hiện tại, giữa hai bên vẫn còn khoảng cách. Và nếu khoảng cách càng lớn, DN vì "mưu sinh" nên có thể sẽ tìm các công cụ hỗ trợ để qua mặt cơ quan quản lý.

Theo Thời báo Tài chính

Read More...

“Nhập phôi thép hộ” cho người khác, gây thiệt hại tới 62 tỷ đồng

Giám đốc chi nhánh của Công ty Vật tư Vận tải và Xếp dỡ trực thuộc Bộ Công nghiệp (cũ) đã có hành vi làm trái các quy định quản lý kinh tế của Nhà nước dẫn đến mất mát hơn 62 tỷ đồng.



Sáng nay (27/9), Tòa án nhân dân TP Hà Nội đưa ra xét xử Phạm Công Ngà (SN 1948, ở tại số 19, ngõ 81 Láng Hạ, Thành Công, Ba Đình, Hà Nội) nguyên là Giám đốc chi nhánh Công ty Vật tư Vận tải và xếp dỡ tại Hà Nội.

Phạm Công Ngà bị truy tố về tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

Cụ thể, theo tài liệu truy tố, năm 1998, thông qua nhân viên cấp dưới, Phạm Công Ngà đã gặp gỡ Lê Việt Dũng (Giám đốc Chi nhánh Công ty Thương mại đầu tư và phát triển Hà Nội tại Đà Nẵng) và tiến tới hợp tác làm ăn với nhau.

Hai bên thỏa thuận phía Công ty Thương mại sẽ nhập khẩu sắt thép, Chi nhánh Công ty Vật tư sẽ ứng vốn. Khi hàng về phía Lê Việt Dũng bán hàng và trả tiền cho Phạm Công Ngà bao gồm các khoản vốn ứng trước, lãi suất theo ngân hàng và phí nhập khẩu ủy thác.

Từ tháng 5/2001 đến tháng 11/2001, hai bên đã ký 3 hợp đồng ủy thác nhập khẩu phôi thép. Theo đó, hợp đồng thứ nhất, Công ty Vật tư ủy thác nhập khẩu 8.772 tấn phôi thép, trị giá 27 tỷ đồng.

Hợp đồng thứ hai, ủy thác nhập khẩu 8.734 tấn phôi thép, trị giá 26,7 tỷ đồng.

Hợp đồng thứ ba, ủy thác nhập khẩu 4.799 tấn phôi thép, trị giá 14,5 tỷ đồng.

Cả 3 hợp đồng này đều có điều khoản quy định phía Lê Việt Dũng phải đặt cọc 10% giá trị hợp đồng, số tiền còn lại sẽ thanh toán trong vòng 60 ngày. Phía Lê Việt Dũng nhận hàng hóa nhưng trả tiền đâu thì sở hữu hàng hóa đến đó, số hàng còn lại thuộc sở hữu của bên B.

Quá trình thực hiện hợp đồng, Phạm Công Ngà không thực hiện đúng quy định của Nhà nước, quy chế của ngành, làm trái nội dung hợp đồng, không bắt Lê Việt Dũng đặt cọc, không thế chấp 100% giá trị hàng hóa.

Lô hàng nhập về cũng không có giao nhận hàng hóa mà ủy quyền cho Lê Việt Dũng đi nhận và giao toàn bộ hàng cho Dũng. Phạm Công Ngà cũng hông theo dõi, giám sát hàng hóa dẫn đến việc Dũng bán hàng, thu tiền xong không thanh toán.

Khi hợp đồng đầu tiên chưa được thanh toán xong thì Ngà ký thêm hợp đồng thứ 2, thứ 3. Điều này dẫn đến số tiền bị Dũng chiếm rất lớn, tổng cộng hơn 62,2 tỷ đồng.

Hành vi của Ngà đã cố ý làm trái quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989.

Quá trình điều tra, Lê Việt Dũng đã tự nguyện nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra 300 triệu đồng, 60.000 USD và 2 ngôi nhà Trúc Bạch, quận Ba Đình (Hà Nội) và ở Xuân La, quận Tây Hồ (Hà Nội).

Tổng giá trị số tài sản này được định giá là 45,4 tỷ đồng. Như vậy thiệt hại của Chi nhánh Công ty Vật tư Vật tải và xếp dỡ còn 16,8 tỷ đồng.

Quá trình điều tra, Lê Việt Dũng khai số tiền 65,7 tỷ đồng bán phôi thép, Dũng rút 17 tỷ đồng đầu tư vào dây chuyền cán thép ở Mỹ và đưa cho nhân viên Nguyễn Thị Mai Hoa 8,6 tỷ đồng để đưa cho Phạm Công Ngà.

Ngà không thừa nhận khoản tiền lót tay này nhưng do Lê Việt Dũng đã chết ở Mỹ nên không có cơ sở làm rõ.

Với hành vi này, Phạm Công Ngà bị truy tố về tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự, khung hình phạt 10 đến 20 năm. Hoàng Duy

Read More...

Quản lý chất lượng thép làm cốt bê tông

Thép làm cốt bê tông sản xuất trong nước phải được công bố hợp quy phù hợp và thép làm cốt bê tông nhập khẩu phải được giám định hoặc chứng nhận phù hợp với quy định.

Hỏi: Công ty tôi sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực sắt thép. Vậy xin hỏi quý báo về quy định việc quản lý chất lượng thép làm cốt bê tông hiện nay?


Thép làm cốt bê tông sản xuất trong nước phải được công bố hợp quy phù hợp với các quy định. Ảnh minh họa

Đáp: Thép làm cốt bê tông sản xuất trong nước phải được công bố hợp quy phù hợp với các quy định tại mục 2 và mục 4 của Quy chuẩn này cho từng loại thép (theo mác và đường kính danh nghĩa của thép làm cốt bê tông) dựa trên một trong các cơ sở sau: a) Kết quả chứng nhận hợp quy của Tổ chức chứng nhận được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng chỉ định hoặc thừa nhận; Kết quả thử nghiệm phù hợp Quy chuẩn này của Phòng thử nghiệm được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng chỉ định trong trường hợp cơ sở sản xuất đang áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đã được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 9001 của Tổ chức chứng nhận đã đăng ký lĩnh vực hoạt động tại Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.

Việc chứng nhận hợp quy được thực hiện theo phương thức thử nghiệm mẫu điển hình và đánh giá quá trình sản xuất; giám sát thông qua thử nghiệm mẫu lấy tại nơi sản xuất hoặc trên thị trường kết hợp với đánh giá quá trình sản xuất (Phương thức 5 trong Phụ lục II, Quy định về chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy và công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy ban hành kèm theo Quyết định số 24/2007/QĐ-BKHCN ngày 28 tháng 9 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ) và quy định về đánh giá sự phù hợp trong TCVN 1651:2008, Thép cốt bê tông.

Thép làm cốt bê tông sản xuất trong nước khi đưa ra lưu thông trên thị trường phải có dấu hợp quy thể hiện trên nhãn của bó hoặc cuộn.

Thép làm cốt bê tông nhập khẩu phải được giám định hoặc chứng nhận phù hợp với quy định tại mục 2 và mục 4 của Quy chuẩn này cho từng loại thép (theo mác và đường kính danh nghĩa) thuộc lô hàng hoá theo phương thức thử nghiệm mẫu, đánh giá sự phù hợp của lô sản phẩm, hàng hóa (Phương thức 7 trong Phụ lục II Quy định về chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy và công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy ban hành kèm theo Quyết định số 24/2007/QĐ-BKHCN ngày 28 tháng 9 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ).

Việc giám định hoặc chứng nhận hợp quy thép làm cốt bê tông nhập khẩu do Tổ chức giám định hoặc Tổ chức chứng nhận trong và ngoài nước được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng chỉ định hoặc thừa nhận.

Thép làm cốt bê tông nhập khẩu nếu đã được chứng nhận hợp quy theo Phương thức 5 phù hợp với các quy định tại mục 2 và điều 4.4 bởi tổ chức chứng nhận được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng chỉ định hoặc thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp, doanh nghiệp nhập khẩu không phải thực hiện việc giám định hoặc chứng nhận lô hàng hoá theo Phương thức 7.

Thép làm cốt bê tông nhập khẩu phải được kiểm tra nhà nước về chất lượng theo quy định tại Thông tư số 17/2009/TT-BKHCN ngày 18 tháng 6 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá nhập khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Thép làm cốt bê tông đã được kiểm tra nêu trên không phải công bố hợp quy theo quy định tại Quyết định số 24/2007/QĐ-BKHCN ngày 28 tháng 9 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.

Thép làm cốt bê tông nhập khẩu khi đưa ra lưu thông trên thị trường phải có dấu hợp quy được thể hiện trên nhãn của bó hoặc cuộn.

Thép làm cốt bê tông lưu thông trên thị trường phải có dấu hợp quy được thể hiện trên nhãn và việc ghi nhãn hàng hoá theo quy định tại mục 4 của quy chuẩn này.

Thép làm cốt bê tông lưu thông trên thị trường phải được kiểm tra nhà nước về chất lượng theo quy định tại Thông tư số 16/2009/TT- BKHCN ngày 2 tháng 6 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.

Chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy, dấu hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp; Chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy, dấu hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp quy định tại điều 5.1; 5.2 và 5.3 thực hiện theo Quy định về chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy và công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy ban hành kèm theo Quyết định số 24/2007/QĐ-BKHCN ngày 28 tháng 9 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.

Việc chỉ định hoặc thừa nhận tổ chức chứng nhận được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 08 tháng 4 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn về yêu cầu, trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp và Thông tư số 11/2011/TT-BKHCN ngày 30 tháng 6 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư 09/2009/TT-BKHCN.

Tùy thuộc tình hình thực tế, đối với trường hợp thép làm cốt bê tông sản xuất, kinh doanh trong nước không thể đánh giá chứng nhận hợp quy theo phương thức 5, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng nghiên cứu, quyết định việc áp dụng hình thức giám định hoặc chứng nhận hợp quy cho lô sản phẩm theo phương thức 7.

Chuyên mục có sự phối hợp với Vụ Hợp chuẩn hợp quy – Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Số 8, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội.

(Mọi thông tin về lĩnh vực Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng độc giả quan tâm, xin gửi câu hỏi về địa chỉ email: hoidap@vietq.vn)

Read More...

Bộ Công thương phản bác luận điểm về sự phá sản của doanh nghiệp thép

DN thép lo ngại khó cạnh tranh, phải đóng cửa hàng loạt khi thuế nhập khẩu thép từ Nga giảm mạnh về 0%
Quan điểm giữa Bộ Công thương, cơ quan chủ trì đàm phán Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan Nga - Belarus - Kazakshtan (VCUFTA) với Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) và các doanh nghiệp (DN) sản xuất thép trong nước tiếp tục căng thẳng.


Trước những lo ngại của DN thép về khả năng khó cạnh tranh, đóng cửa hàng loạt khi thuế nhập khẩu thép từ Nga giảm mạnh về 0% nếu VCUFTA được ký kết, Bộ Công thương đã phát đi thông cáo trấn an DN và dư luận.

Theo lập luận của Vụ Thị trường châu Âu (Bộ Công thương), trong số nhiều mặt hàng sắt thép phía Liên minh yêu cầu ưu tiên cắt giảm thuế quan, chỉ có một số loại thuộc danh mục do VSA đề nghị bảo lưu lộ trình cắt giảm thuế.

Như vậy, về tổng thể, phía Liên minh có thể cung cấp cho Việt Nam nhiều mặt hàng sắt thép mà trong nước không sản xuất, phía Liên minh sẽ phải tự cạnh tranh với các đối tác khác trên thị trường Việt Nam.

“Nga là đất nước rộng lớn và những trung tâm sản xuất thép của Nga tập trung ở miền Trung, cách Viễn Đông xa hơn khoảng cách từ Viễn Đông đến Việt Nam. Như vậy, việc chuyên chở sắt thép từ các nhà máy này, qua Viễn Đông và về Việt Nam sẽ rất khó cạnh tranh với mặt hàng sắt thép tương tự đang lưu hành trên thị trường Việt Nam, vốn đang gây lo ngại lớn cho ngành thép Việt Nam”, Vụ Thị trường châu Âu nhận xét và cho rằng, lo ngại về việc ngành thép sẽ bị phá sản khi VCUFTA được ký kết là không có căn cứ.

Ngay sau khi Bộ Công thương cho rằng, lo ngại của ngành thép Việt Nam là không có căn cứ, VSA cũng đã nhanh chóng lên tiếng.

VSA cho hay, Hiệp hội và các DN thép đã xem xét kỹ danh mục đề xuất này và đưa ra 41 mặt hàng đề nghị mức độ ưu tiên, cân nhắc khi đưa ra lộ trình cắt giảm thuế. Nghĩa là, 41 mặt hàng này cần giữ lộ trình giảm thuế 10 năm, chứ không thể về 0% ngay lập tức, hoặc về 0% sau 5 năm ký kết.

“Nhìn về số lượng, 41 mặt hàng chỉ chiếm tỷ lệ 24,55% trong tổng số 167 mặt hàng, là con số thấp. Trong số 41 mặt hàng này, chỉ có 37 mặt hàng nằm trong danh mục 167 mặt hàng đối tác yêu cầu. Với danh mục mặt hàng nhỏ và không phải mặt hàng nào đối tác cũng yêu cầu cắt giảm ngay, lý do gì phía Việt Nam đề nghị cả danh mục dài, trong đó có 41 mặt hàng nhạy cảm của ngành sản xuất trong nước cũng có khả năng sản xuất”, đại diện VSA nhận xét và cho rằng, việc tham gia Hiệp định với Liên minh Hải quan cần có lộ trình đủ dài cho ngành sắt thép trong nước tiếp tục ổn định và phát triển, chứ không phải thúc đẩy sự phát triển của ngành này, đồng thời mang tính loại trừ ngành khác.

Hiện công suất của các nhà máy thép ở Việt Nam là hơn 11 triệu tấn phôi, hơn 9,22 triệu tấn thép xây dựng và hơn 2,1 triệu tấn ống thép. Trong khi đó, do nhu cầu thị trường, các nhà máy hiện nay đều sản xuất cầm chừng, nhiều nơi chỉ sản xuất 50-60% công suất thiết kế. Ngoài ra, có những DN nhỏ không cạnh tranh được đã phá sản.

Công nghiệp nặng là nòng cốt, tạo tiền đề phát triển cho các ngành công nghiệp khác. Do vậy, rất cần các nhà làm chính sách cân nhắc lợi ích, đưa ra lộ trình phù hợp để góp phần phát triển ngành công nghiệp nặng trong nước. Việc mở cửa thị trường một cách nhanh chóng và ồ ạt có thể giết chết một ngành hàng còn non trẻ.
Theo Thanh Hương

Read More...

Giá thép tấm nội địa Việt Nam dự báo tăng trong thời gian tới

Trong tuần vừa qua (1/7), giá thép tấm SS400 10-20mm Việt Nam tại các thị trường trong nước có xu hướng không đồng đều, ổn định tại một số khu vực mà tiêu biểu là tỉnh Đồng Nai, trong khi đó lại tăng nhẹ ở một số vùng khác , chẳng hạn như Hải Phòng. Nhận thấy giá nguyên liệu thô tăng lên, các thương nhân dự báo giá mặt hàng này dường như sẽ còn tăng thêm tại nhiều thị trường hơn nữa trong thời gian tới.

Theo một công ty tại tỉnh Đồng Nai cho biết, trong tuần, giá thép tấm SS400 10-20mm có mức giá 12.600 VND/ kg đã gồm VAT, không đổi so với tuần trước.

Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ dường như không hề có sự cải thiện nào trong bối cảnh nền kinh tế u ám. Do vậy, hiện tại, công ty này không có kế hoạch nhập thêm hàng về nữa. Tuy nhiên, họ cũng dự báo rằng giá thép tấm trong khu vực khả năng sẽ tăng nhẹ trong thời gian tới do gía nhập khẩu mặt hàng này đã tăng thêm 10-20 USD/tấn trong 2 tuần qua.

Một quản lý bán hàng tại Hải Phòng cho biết hiện tại đang chào bán thép tấm SS400 10-20mm ở mức 13.200 VND/kg đã gồm VAT, tăng thêm 200 VND/kg so với tuần trước đó.

Theo các nguồn tin cho biết, giá nguyên liệu thô mà tiêu biểu là giá quặng tăng đã thúc đẩy giá thép tấm tăng lên. Dự báo trong những tuần tới, giá mặt hàng này sẽ còn tăng lên nữa.

Nguồn : satthep.net

Read More...

Không được phép chậm nộp C/O thép Bo nhập khẩu

Bộ Tài chính vừa có công văn yêu cầu các đơn vị Hải quan tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc nhập khẩu thép chứa nguyên tố boron (Bo).


Ảnh minh họa. Nguồn: internet.

Cụ thể, cơ quan hải quan phải yêu cầu người khai hải quan xuất trình Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) tại thời điểm đăng ký tờ khai đối với các mặt hàng thép có chứa nguyên tố Bo nhập khẩu, không được phép gia hạn chậm nộp C/O.

Đồng thời, Cục Hải quan các tỉnh, thành phố chỉ đạo các chi cục tăng cường công tác kiểm tra việc khai báo đối với mặt hàng thép nhập khẩu có chứa nguyên tố Bo; tập trung kiểm tra mã số hàng hóa, thuế suất, trị giá tính thuế, số lượng, nội dung C/O và tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan đối với các lô hàng đã đăng ký nhập khẩu đang nợ C/O.

Thời gian qua, việc nhà sản xuất cho nguyên tố Bo vào thép đã khiến các cơ quan quản lý “đau đầu” tìm cách ngăn chặn vì trên thực tế, thép chứa nguyên tố Bo kích thước phi 6 và phi 8 chủ yếu nhập về để sử dụng trong xây dựng nhưng lại được hưởng thuế suất ưu đãi 0%, trong khi nếu là thép xây dựng bình thường (không có nguyên tố Bo) thì phải chịu thuế NK.

Để kiểm soát sự bất thường trong khai báo C/O đối với mặt hàng thép chứa nguyên chất Bo, giữa tháng 6-2012, Tổng cục Hải quan đã yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố rà soát số liệu các tờ khai làm thủ tục NK thép chứa nguyên tố Bo khai báo thuế theo C/O form E trong thời gian từ 1-1 đến 31-5-2012.

Qua đó, Tổng cục Hải quan tiến hành kiểm tra, rà soát, yêu cầu Hải quan các tỉnh, thành phố kiểm tra chặt chẽ, thu đủ chứng từ C/O theo quy định. Cho đến nay, Tổng cục Hải quan vẫn tiếp tục tăng cường kiểm tra, kiểm soát đối với mặt hàng thép, đặc biệt về giá tính thuế để ngăn chặn gian lận trong kê khai.

Bên cạnh các biện pháp kiểm tra, kiểm soát, trước đó, Bộ Tài chính cũng đã khẳng định, đang nghiên cứu để ban hành các biện pháp phi thuế (đưa ra hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, cấp hạn ngạch NK) và khả năng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm thép các loại và thép có chứa hàm lượng Bo NK từ Trung Quốc để có cơ sở áp thuế chống phá giá theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Đặc biệt, Bộ Tài chính cũng đã đề nghị Hiệp hội Thép Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Hải quan, các cơ quan chức năng khác như Quản lý thị trường, Biên phòng,... để chống buôn lậu và gian lận thương mại.

Nguồn tin: Hải quan

Read More...

Tồn kho thép muốn xuất cũng khó

Xu hướng bảo hộ thương mại khiến hàng rào kỹ thuật đối với thép nhập khẩu được dựng lên ở nhiều quốc gia. Chỉ trong thời gian ngắn gần đây, hàng loạt sản phẩm thép của Việt Nam xuất khẩu ra các nước như Indonesia, Malaysia, Thái Lan… liên tiếp nhận được đơn kiện và cảnh báo điều tra tự vệ thương mại.

Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) vừa có văn bản gửi lên Bộ Công Thương cảnh báo, nhiều DN ngành thép có khả năng phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá, cũng như bị áp dụng biện pháp tự vệ của một số quốc gia nhập khẩu. Thừa nhận việc đẩy mạnh xuất khẩu một số sản phẩm thép là một giải pháp giúp các DN trong ngành giảm lượng hàng tồn kho, nhất là trong bối cảnh khó khăn của ngành xây dựng và hạ tầng hiện nay. Tuy nhiên, VSA cho rằng, “phản kháng” của các thị trường nhập khẩu đang đặt ra nhiều thách thức lớn cho DN trong ngành.



Từ việc tiêu thụ toàn cầu giảm sút, ngành xây dựng ảm đạm tại nhiều quốc gia trên thế giới, câu chuyện tồn kho thép không chỉ có ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, xu hướng bảo hộ thương mại khiến hàng rào kỹ thuật đối với thép nhập khẩu được dựng lên ở nhiều quốc gia. Chỉ trong thời gian ngắn gần đây, hàng loạt sản phẩm thép của Việt Nam xuất khẩu ra các nước như Indonesia, Malaysia, Thái Lan… liên tiếp nhận được đơn kiện và cảnh báo điều tra tự vệ thương mại.

Theo quyết định của Ủy ban tự vệ thương mại Indonesia (KPPI), từ ngày 19/12/2012 cơ quan này sẽ điều tra tự vệ thương mại đối với sản phẩm tôn mạ hợp kim nhôm, kẽm của Việt Nam. Lý do được giải thích là có sự gia tăng mạnh về số lượng các sản phẩm nhập khẩu, dẫn tới một số dấu hiệu ban đầu về sự thiệt hại của ngành công nghiệp nội địa nước này. Trước đó ngày 18/12, VSA cũng nhận được thư của Hiệp hội Tôn mạ kim loại và sơn phủ màu Thái Lan cảnh báo lần hai về sự gia tăng đột biến của mặt hàng tôn mạ kim loại, sơn phủ màu của Việt Nam xuất sang nước này…

Chưa hết, sau vụ kiện bán phá giá sản phẩm thép ống của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ vừa kết thúc, nước này tiếp tục cảnh báo kiện sản phẩm ống thép tiêu chuẩn dẫn dầu. Thép cán nguội cũng vừa bị phía Indonesia áp thuế chống bán phá giá và trước đó bị Brazin khởi xướng điều tra chống bán phá giá... Ông Nguyễn Tiến Nghi - Phó Chủ tịch VSA lưu ý: “Nếu các biện pháp trên được thực thi, sẽ đẩy các DN sản xuất thép của Việt Nam vào hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhất là với các DN xuất khẩu nhiều.

Giải thích cho quan điểm này, ông Nghi cho rằng, sản phẩm thép của Việt Nam không có nhiều lợi thế cạnh tranh, ngoài giá cả. Nếu bị điều tra phòng vệ, và chịu áp các mức thuế cao thì chắc chắn, các chủng loại thép xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị "đánh bật" khỏi các thị trường này. Số liệu từ VSA cho biết, trong năm 2012 các sản phẩm thép xuất khẩu từ Việt Nam vào các nước Đông Nam Á đạt khoảng 500.000 tấn. Mặc dù lượng thép xuất khẩu vào thị trường này tăng cao so với mức trung bình khoảng 100.000 tấn trước đây. Tuy nhiên, lượng thép mà các DN xuất khẩu vào từng thị trường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ.

Điển hình như với sản phẩm thép cuộn cán nguội xuất khẩu vào Indonesia vừa bị nước này áp thuế chống bán phá giá, hiện chỉ có Công ty Posco Việt Nam xuất khẩu với số lượng không nhiều. Hay sản phẩm tôn cán mạ vừa bị điều tra chống bán phá giá cũng chủ yếu do Công ty Tôn Hoa Sen xuất khẩu. Lãnh đạo DN này khẳng định hoàn toàn có căn cứ để chứng minh sản phẩm tôn cán mạ không bán phá giá vào Indonesia.

Liên quan đến việc cảnh báo của Hiệp hội Tôn mạ kim loại và sơn phủ màu Thái Lan, VSA cũng đã có công văn gửi đến các công ty tôn mạ trong nước đề nghị nâng cao trách nhiệm kiểm soát lượng và giá xuất khẩu, tránh làm phức tạp thêm tình hình…

Trong lúc nhiều quốc gia tỏ ra “cảnh giác” với thép xuất khẩu của Việt Nam, những quan điểm cho rằng, đầu tư quy mô lớn vào thép là để cạnh tranh với thế giới, để không chỉ nhắm đến thị trường trong nước dưới 90 triệu dân mà cả thị trường khu vực rộng lớn, giờ đây dường như không còn dễ thuyết phục như trước.

Những lo ngại phá vỡ quy hoạch ngành thép khi mà sản lượng thiết kế của các nhà máy thép Việt Nam đang gấp 2-3 lần mức tiêu thụ của thị trường nội địa, ít lâu nay nhiều chủ đầu tư “đại dự án” thép đã không còn lên tiếng phản kháng. Dự án Khu liên hợp thép Cà Ná với vốn đầu tư 9,8 tỷ USD đã bị chính quyền địa phương thu hồi giấy chứng nhận đầu tư; Dự án thép Tata tại Vũng Áng có vốn 5 tỷ USD cũng trễ hẹn triển khai nhiều lần…

Nguồn tin: VietStock
Tags: Sắt thép, thép hộp, thép vuông, ống thép, Dịch vụ vệ sinh NVĐ

Read More...

Ngành luyện thép sẽ được cải thiện vào năm 2014

Theo một nghiên cứu của Ernst & Young, để tồn tại được trong năm 2013, các doanh nghiệp thuộc ngành thép cần phải tập trung vào khôi phục và duy trì giá trị của mình, đồng thời tập trung vào việc xây dựng cơ sở cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai.



Các chuyên gia Ernst & Young cho rằng, vấn đề chính trong ngành thép năm nay sẽ là việc dư thừa công suất sản xuất, bất chấp tình hình sẽ được cải thiện vào năm 2014.

Mike Elliott, người đứng đầu bộ phận thực hành toàn cầu của Ernst & Young về cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp khai mỏ và luyện kim, cho biết, các doanh nghiệp luyện thép cần phải giảm chi phí và tối ưu hóa cơ cấu vốn. Các tác giả của nghiên cứu này nghi ngờ tính khả thi của việc thực hiện liên kết ngành dọc như là một phương thức tăng vốn trong ngành thép.

Mike Elliott nhận định, trong năm 2013, đứng trước các doanh nghiệp ngành thép là một nhiệm vụ phức tạp – giữ được khả năng cạnh tranh theo quan điểm chính sách giá cả và đồng thời lại giữ được giá trị doanh nghiệp ở mức cần thiết”. Cho dù trong cả năm 2012 nhu cầu thép tăng và các công suất già cỗi đã bị đóng cửa, nhưng số công suất dư thừa tính đến đầu năm nay vẫn vượt con số của 12 tháng. Nguyên nhân là do năm ngoái đưa vào vận hành nhiều công suất mới.

Công suất sản xuất của ngành thép vẫn hoạt động ít nhất là 80%, nhưng, theo dự đoán, từ năm 2014, tình hình hứa hẹn sẽ ổn định.

Theo Mike Elliott, “rất ít có khả năng năm nay tốc độ tăng nhu cầu thép trên thị trường thế giới sẽ vượt được tốc độ vận hành công suất mới. Yếu tố này, cùng với biến động giá cả trên thị trường nguyên liệu có thể làm suy yếu sự ổn định của các ngành sản xuất có chi phí cao”. “Tuy nhiên, việc loại bỏ những nhà máy lỗi thời và không có hiệu quả và việc nhu cầu thép cao lên có thể sẽ tạo điều kiện tăng lợi nhuận của ngành thép trong các năm 2014 và 2015.

Song song với nhận định trên, Mike Elliott cũng cho rằng, công việc loại bỏ công suất sản xuất dư thừa có thể sẽ vấp phải những khó khăn mang tính chính trị. Vấn đề muốn đề cập ở đây là những sáng kiến có thể của nhà nước về duy trì việc làm. Những sáng kiến này có thể dẫn đến chậm trễ trong việc loại bỏ công suất sản xuất lỗi thời và không hiệu quả. “Hỗ trợ những cơ sở sản xuất đã chết chỉ làm tổn thương ngành thép thế giới mà thôi”, - Mike Elliott khẳng định.

Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp luyện kim đưa các mỏ khai thác nguyên liệu vào chuỗi cung cấp của họ, bằng cách đó, cố gắng ổn định giá cả và duy trì giá trị doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên, kết quả phân tích của các chuyên gia Ernst & Young cho thấy, hành động này không phải lúc nào cũng làm tăng giá trị doanh nghiệp.

Mike Elliott phát biểu, “người ta cho rằng, với cấu trúc liên kết ngành dọc, trị giá doanh nghiệp sẽ tăng lên, nhưng kết quả nghiên cứu của chúng tôi chứng minh rằng, đó không phải là nguyên tắc phổ quát, và nó có tác dụng hoàn toàn không phải cho tất cả mọi doanh nghiệp”.

Các doanh nghiệp luyện thép cần phải nghiêm túc đánh giá hiệu quả của mô hình liên kết kinh doanh theo ngành dọc và xem xem, liệu mô hình phân chí có phù hợp với mình hơn không. Những doanh nghiệp này phải nghiên cứu các phương án thay thế về quản lí chi phí đối với nguyên liệu và nguồn cung nguyên liệu.

Trước tình trạng tăng trưởng yếu ớt của ngành luyện kim, việc giảm chi phí trở thành điều kiện quan trọng sống còn để ổn định và tăng trưởng kinh tế trong tương lai của các doanh nghiệp sản xuất thép.

Nguồn tin: NDH Money

Read More...

Nhập siêu thép chưa có hồi kết



Điều đáng nói, ngoài việc nhập khẩu thép phế, phôi thép là nguyên liệu bắt buộc cho sản xuất thép thì vẫn còn tình trạng nhập khẩu thép xây dựng, tôn mạ, thép cán nguội là những sản phẩm trong nước đang dư thừa.

Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết, năm 2012 ngành thép đã xuất khẩu được hơn 2 triệu tấn với doanh thu gần 2 tỷ USD, nhưng lại mất tới gần 7 tỷ USD để nhập về hơn 10 triệu tấn thép các loại. Như vậy, ngành thép vẫn nhập siêu tới 5 tỷ USD.

Theo dự báo, nhập siêu trong ngành thép sẽ còn kéo dài nhiều năm nữa do nhu cầu thép đa dạng để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tăng, trong khi sản xuất trong nước mới đang ở giai đoạn đầu, chủ yếu là sản xuất thép xây dựng và chỉ tập trung cho các công đoạn sản xuất ở hạ nguồn (nhập phôi để cán sản phẩm) mà bỏ qua khâu thượng nguồn (luyện phôi), khiến cho phôi thép thiếu luôn phải nhập khẩu với số lượng lớn.

Do đó, nguyên liệu và sản phẩm thép nhập khẩu về Việt Nam vẫn tăng mạnh trong thời gian tới. Ngành thép trở thành ngành kinh tế tiêu tốn lượng ngoại tệ lớn, tỷ lệ nhập siêu cao.

Hiện nay, nhiều sản phẩm thép trong nước sản xuất có công suất cao hơn so với nhu cầu nhiều lần nhưng vẫn không cạnh tranh được với thép nhập khẩu. Trong khi chỉ vài năm tới, chính sách bảo hộ chấm dứt đối với sản xuất thép, cuộc cạnh tranh sẽ vô cùng khốc liệt.

Theo lộ trình cam kết WTO và AFTA, Việt Nam sẽ phải xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với nhiều mặt hàng, trong đó có thép. Như vậy, thị trường thép trong nước sẽ đón nhận luồng hàng nhập khẩu với giá thành thấp, chất lượng cao từ nước ngoài và nhập siêu khó giảm, thậm chí có thể tăng do sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước quá yếu.

Để tạo điều kiện cho ngành công nghiệp thép trong nước phát triển, giảm nhập siêu, VSA cho rằng, cần tiến hành thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Theo đó, Bộ Công Thương cần hạn chế nhập khẩu các sản phẩm thép trong nước đã có công suất dư thừa, đảm bảo đủ cung ứng cho nhu cầu trong nước như thép xây dựng, tôn mạ, thép cán nguội, ống thép hàn.

Bản thân doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật để hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại để tăng khả năng xuất khẩu sản phẩm.

Đồng thời, cần đẩy mạnh việc nhập khẩu thép phế liệu để tăng cường sản xuất phôi trong nước, qua đó giúp ngành thép dần tự chủ được nguyên liệu chính cho sản xuất, đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước đồng thời góp phần tăng giá trị gia tăng của sản phẩm và hạn chế nhập siêu.

Việc Nhà nước cho phép sử dụng nhiều loại ngoại tệ thay thế đồng USD trong thanh toán nhập khẩu cũng là một biện pháp có thể giúp doanh nghiệp linh hoạt và chủ động hơn trong nhập khẩu nguyên liệu sản xuất.

Ngân hàng Nhà nước cân đối nguồn ngoại tệ và tín dụng nhập khẩu các nguyên liệu cho sản xuất thượng nguồn mà trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu như: thép phế, gang luyện thép, than mỡ, than cốc,... để bảo đảm đủ nguyên liệu cho sản xuất thép, phục vụ nhu cầu thép trong nước, cũng như nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng cho xuất khẩu.

Bên cạnh đó, cần hạn chế cấp tín dụng, ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu các sản phẩm mà sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu và đang dư thừa như thép xây dựng, thép cán nguội, thép ống, thép mạ.

Để hạn chế và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu sản phẩm thép, nhất là đối với các sản phẩm thép trong nước đã sản xuất đủ nhu cầu, VSA đề nghị áp dụng giấy phép nhập khẩu tự động đồng thời kiểm soát C/O (giấy chứng nhận xuất xứ) phù hợp với hàm lượng để xác định xuất xứ. Một trong những biện pháp tự vệ của các nước khi gia nhập WTO là sử dụng hàng rào kỹ thuật. Nhà nước cần yêu cầu các đơn vị sản xuất trong nước phải tiến hành in logo của mình lên sản phẩm thép cuộn, thép thanh, thép hình và yêu cầu các sản phẩm nhập khẩu phải có logo của nhà sản xuất.

Cùng với đó, hạn chế nhập khẩu thép cán nguội khổ hẹp hoặc hàng loại 2 kém phẩm chất; nghiên cứu xây dựng và ban hành Quy chuẩn quốc gia đối với sản phẩm thép cho sản xuất và kiểm soát chất lượng sản phẩm thép nhập khẩu.

Đề nghị cơ quan chức năng tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát khi làm thủ tục thông quan đối với sản phẩm thép xây dựng nhập khẩu như: yêu cầu xuất trình hợp chuẩn chất lượng hàng hóa trước khi cho thông quan.

Việc giám sát và cấp phép các dự án đầu tư mới theo quy hoạch cần chặt chẽ, nhất là việc cấp phép mới các dự án đầu tư theo quy hoạch đã được phê duyệt, đồng thời xây dựng các tiêu chí kỹ thuật về vệ sinh môi trường như: các tiêu chí về tiêu hao năng lượng, bảo vệ môi trường, quy mô đầu tư công nghệ thiết bị cho dự án mới.

Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm ban hành Quy chế quản lý phế liệu nhập khẩu tạo thuận lợi cho các đơn vị nhập khẩu thép phế về cho sản xuất thép trong nước. Coi phế liệu là nguồn nguyên liệu quan trọng trong sản xuất thép của Việt Nam để có những quy định phù hợp vừa bảo vệ môi trường nhưng cũng không cản trở sản xuất thép.

Nguồn tin: vneconomy

Read More...

Giá thép không gỉ của Mỹ trong quý IV/2012 ở mức thấp lịch sử

Theo Allegheny Technologies Inc (ATI), công bố lợi nhuận kinh doanh trong quý cuối cùng của năm 2012 đạt 9,4 triệu USD, giảm so với 17,4 triệu USD cùng quý năm trước.

Trong cùng thời gian trên, tổng doanh thu đạt 495,6 triệu USD, giảm 17,2% so với cùng quý năm trước.

Giá bán thép không gỉ đã giảm khoảng 14% phụ phí thấp, thậm chí khối lượng tăng 28%.

ATI cho biết, giá bán hầu hết sản phẩm thép không gỉ đạt mức thấp lịch sử và nhu cầu từ tất cả các thị trường trong quý IV/2012 đều giảm.

Nguồn tin: Vinanet

Read More...

Tổng công ty Thép Việt Nam giấu lỗ



Báo cáo năm 2012 của Tổng công ty Thép Việt Nam (VnSteel) cho biết, năm 2012, kết quả kinh doanh của Công ty mẹ bị lỗ, không hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận, chỉ tiêu cổ tức mà ĐHCĐ 2012 thông qua.

Trong hệ thống công ty mẹ - con, có 3 công ty con (trong số 12 công ty) và 7 công ty liên kết (trong số 29 công ty liên kết) có kết quả kinh doanh lỗ. Tuy nhiên, con số lỗ cụ thể chưa được tổng công ty này công bố.
Hiện VnSteel có 2 dự án lớn đang triển khai dở dang nhiều năm nay, làm năng lực sản xuất của Tổng công ty không tăng trưởng, giảm năng lực cạnh tranh của Tổng công ty; gây lãng phí cho Nhà nước, doanh nghiệp và cổ đông. Cụ thể, Dự án CTCP Gang thép Thái Nguyên giai đoạn II, khởi công từ năm 2007, hiện đang chờ Chính phủ có ý kiến về việc điều chỉnh tổng mức đầu tư. Trong khi đó, Dự án Nhà máy Gang thép Lào Cai của Công ty TNHH Khoáng sản và Luyện kim Việt Trung, khởi công từ năm 2009 đến nay cũng chậm tiến độ.

Nguồn tin: ĐTCK

Read More...

Thép phế liệu nhập khẩu bị “ách” ở cửa khẩu

Ngày 29/1, Hiệp hội Thép VN (VSA) đã gửi công văn đến liên bộ Tài chính, Công thương và Tài nguyên - môi trường phản đối về việc thép phế liệu đang bị “ách” tại các cửa khẩu.

Lý do, hải quan ở các cửa khẩu đòi phải có “hội đồng thẩm định chuyên ngành” để thẩm định lô hàng theo quy định tại một thông tư liên bộ có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013.

Theo VSA, quy định này không khả thi vì thép phế liệu là nguyên liệu chính để sản xuất phôi thép ở VN, mỗi năm phải nhập hàng triệu tấn mới đủ sản xuất phôi thép phục vụ nhu cầu trong nước. Thời gian lưu tàu, lưu bãi gây tốn kém, chi phí sẽ tính vào giá thành và người tiêu dùng gánh đủ, chưa kể rất khó cạnh tranh với thép ngoại nhập. Hơn nữa, Bộ Tài nguyên - môi trường vẫn chưa chỉ định ai giám định nên hải quan cửa khẩu không thể cho doanh nghiệp sử dụng thép phế liệu sau khi thông quan.

Nguồn tin: NDH Money

Read More...

Tăng cường kiểm tra, kiểm soát NK thép chứa nguyên tố bo

Để kiểm tra, kiểm soát NK thép chứa nguyên tố bo tại cửa khẩu, ngày 29-1-2013, Bộ Tài chính đã có công văn số 1493/BTC-TCHQ yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố tăng cường thực hiện một số biện pháp nghiệp vụ kiểm soát đối với mặt hàng này.


Ảnh minh họa.

Trong đó, Tổng cục Hải quan yêu cầu Cục Hải quan các tỉnh, thành phố yêu cầu người khai hải quan xuất trình C/O tại thời điểm đăng kí tờ khai đối với các mặt hàng thép có chứa nguyên tố bo NK, không được phép gia hạn chậm nộp C/O.

Đồng thời, chỉ đạo các chi cục hải quan tăng cường kiểm tra việc khai báo đối với mặt hàng thép NK có chứa nguyên tố bo; Tập trung kiểm tra mã số hàng hóa, thuế suất, trị giá tính thuế, số lượng, nội dung C/O và tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan đối với các lô hàng đã đăng kí NK đang nợ C/O.

Nguồn tin: Hải quan
Tags: Sắt thép, thép hộp, thép vuông, ống thép, Dịch vụ vệ sinh NVĐ

Read More...

Ứng phó với kiện phá giá thép: DN cần chủ động hợp tác

Mặt hàng thép cuộn cán nguội xuất khẩu sang Indonesia sẽ chính thức bị áp thuế chống bán phá giá từ 13,5 - 36,6% theo phán quyết cuối cùng của Ủy ban chống bán phá giá Indonesia. Bên cạnh đó, Thái Lan và Malaysia cảnh báo điều tra CBPG với thép mạ, tôn mạ màu... DĐDN có cuộc trao đổi cùng ông Phạm Chí Cường - Chủ tịch Hiệp hội thép VN xung quanh vấn đề này.



Theo ông Cường, năm 2012, VN xuất khẩu 2,3 triệu tấn thép các loại trị giá hơn 2 tỉ USD, trong đó xuất khẩu ống thép tăng 20%, xuất khẩu tôn mạ màu, tôn mạ kẽm tăng 28%. Dự kiến, năm 2013 và những năm tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu thép chắc chắn sẽ tiếp tục tăng vì công suất sản xuất thép của chúng ta đã vượt quá nhu cầu trong nước rất nhiều. Bởi vậy, trong thời gian tới các DN sẽ phải tích cực chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh ngành thép đang đứng trước nguy cơ bị nhiều nước kiện bán phá giá.

- Vậy quan điểm của ông về việc mặt hàng thép cán nguội XK sang Indonesia bị áp thuế chống bán phá giá cũng như bị các nước trong khu vực khởi kiện ?

Các vụ điều tra chống bán phá giá trong bối cảnh ngành thép đang chồng chất khó khăn đã tạo thêm áp lực rất lớn cho DN. Không chỉ trước nguy cơ mất thị trường, mà có thể còn tạo ra những tiền lệ xấu.

Việc các nước áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại xuất phát từ chính khó khăn nội tại của các DN nước sở tại do thị trường thế giới gặp khó khăn.

Chúng ta mới xuất khẩu thép ra thị trường thế giới không lâu. So với các nước trong khu vực, kinh tế VN hội nhập chậm, và trong lĩnh vực sản xuất thép chúng ta cũng chưa có nhiều kinh nghiệm như họ. Vì vậy, có thể nói chúng ta đang cạnh tranh ở thế yếu. Việc các nước, đặc biệt là các nước cùng khối Asean kiện chúng ta bán phá giá thép ở góc độ nào đó là hành động không... đẹp.

- Việc kiện tụng phải trên cơ sở pháp lý, điều không... đẹp theo ý ông ở đây là gì?

Bởi 7 năm qua, phần lớn chúng ta nhập siêu của các nước trong khu vực, trong đó có thép. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu thép của VN sang Indonesia chỉ khoảng 130 nghìn tấn, Malaysia 30 nghìn tấn. Về giá trị tuyệt đối không lớn. Cả hai thị trường mới đạt khoảng 150 triệu USD, trong khi đó phía nước bạn đã đưa ra những cảnh báo rất căng thẳng.

Tuy nhiên, nếu tính tổng công xuất tôn của VN khoảng gần 2,7 triệu tấn, trong khi đó tiêu thụ trong nước chỉ khoảng 1 triệu tấn, thì việc bị các nước kiện bán phá giá sẽ gây rất nhiều khó khăn cho DN trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm.

Tôi nghĩ rằng, trong thời gian tới Cục cạnh tranh Bộ Công Thương cần có biện pháp tích cực để hợp tác nội khối Asean tốt hơn.

- Với một thực tế được dự báo đầy khó khăn cho ngành thép, Hiệp hội có khuyến cáo gì, thưa ông?

Thứ nhất, ở góc độ vĩ mô, Chính phủ, các cơ quan quản lý cần xem xét lại việc cấp phép các dự án sản xuất thép bởi hiện nay công suất sản xuất thép các loại đều cao hơn so với nhu cầu thực tế 2- 3 lần. Đồng thời, phải chủ động lên kế hoạch sử dụng trong nước bao nhiêu và bao nhiêu dành cho xuất khẩu. Không phải đợi đến khi chúng ta dư thừa buộc phải xuất khẩu. Bây giờ nói đến vấn đề này cũng đã muộn nhưng không thừa.

Thứ hai, là ở góc độ DN, cần chủ động lên kế hoạch sản xuất phục vụ thị trường trong nước cũng như xuất khẩu chứ không nên coi xuất khẩu là bài toán cuối cùng để giải quyết đầu ra. Như vậy, sẽ tránh tình trạng DN đua nhau xuất khẩu dìm giá, bán dưới giá thành, phạm luật cạnh tranh. Bên cạnh đó là đẩy mạnh xúc tiến thương mại để chủ động mở rộng và đa dạng thị trường.

- Các DN sản xuất thép trong nước sẽ phải đối diện với nguy cơ bị kiện bán phá giá không chỉ ở các nước trong khu vực mà còn ở nhiều thị trường khác trong thời gian tới. Vậy cơ hội nào cho các DN sản xuất thép VN tại các thị trường bị kiện?

Kim ngạch xuất khẩu thép của VN sang Indonesia chỉ khoảng 130 nghìn tấn, Malaysia 30 nghìn tấn.
Khi bị khởi kiện nguy cơ bị mất thị trường là rất lớn nhưng không phải chúng ta không còn cơ hội. Bởi trên thực tế, với trường hợp ống thép từng bị Mỹ kiện, sau một thời gian dài điều tra, Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ đã tuyên bố, Mỹ không đánh thuế chống bán phá giá đối với ống thép hàn carbon sản xuất tại VN. Điều đó, đồng nghĩa với việc các lô hàng ống thép hàn các bon của VN được nhập khẩu vào Mỹ kể từ sau ngày 30/3/2012 với mức thuế suất trợ cấp bằng 0%.

- Đâu là kinh nghiệm cũng như bài học rút ra sau vụ kiện này, thưa ông?

Đây là vụ đầu tiên ngành thép bị kiện, nhưng với sự chủ động trong hợp tác điều tra, đảm bảo tuân thủ mọi quy tắc trong thương mại quốc tế đã giúp cho ngành thép và các DN thép trong nước thắng kiện.

Tuy nhiên, bài học lớn nhất rút ra chính là việc các DN cần phải chủ động tích cực phối hợp với cơ quan chức năng cũng như phía đối tác khi xảy ra kiện. Khi bị khởi kiện, trong giai đoạn tố tụng, DN phải tích cực trả lời bảng câu hỏi để cơ quan điều tra làm việc có hiệu quả, tích cực theo dõi động thái của bên kiện, tham gia các cơ quan tham vấn, xác minh ngành sản xuất nội địa để có tư liệu chặt chẽ chuẩn bị ứng phó với vụ kiện.

Chẳng hạn, khi Mỹ kiện chúng ta bán phá giá ống thép, họ có đưa ra danh sách hơn 10 DN. Trong đó có những DN không hề xuất hoặc xuất rất ít. Những DN này do chủ quan nghĩ mình không có quyền lợi liên quan hoặc liên quan không đáng kể đã không trả lời những câu hỏi mà họ đưa ra. Tất cả những DN không hợp tác này sau đó đều bị Mỹ áp mức thuế rất cao, gần như là động thái trừng phạt, để “cấm cửa”. Tôi nghĩ đây là một bài học lớn cần rút kinh nghiệm trong các vụ kiện tiếp theo nếu có.

- Xin cảm ơn ông!

Diễn biến về một vụ kiện chống bán phá giá của
Indonesia và Thái Lan đối với sản phẩm thép của VN.

* Ngày 21 tháng 12 năm 2012, Ủy ban Chống bán phá giá Indonesia (KADI) đã ban hành kết luận cuối cùng trong vụ việc điều tra chống bán phá giá thép cuộn cán nguội nhập khẩu từ VN, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.

- Ngày khởi xướng điều tra: 24/6/2011

- Giai đoạn điều tra: 2010

- Sản phẩm bị điều tra: thép cuộn cán nguội gồm các mã HS sau:

+) Mã HS 7209: 7209.16.00.10; 7209.17.00.10; 7209.18.90.00; 7209.26.00.10; 7209.27.00.10; 72.09.28.90.00 và 7209.90.90.00;

+) Mã HS 7211: 7211.23.20.00; 7211.23.90.90; 7211.29.20.00; 7211.29.90.00; 7211.90.10.00 và 7211.90.90.00.

- Nguyên đơn: Cty PT Krakatau Steel

Thông tin trong quyết định của KADI

- Biên độ phá giá KADI xác định đối với các công ty xuất khẩu sản phẩm trên của VN là từ 13.5% – 36.6%.

- Theo số liệu của Bộ Thương mại Indonesia, năm 2010, Indonesia đã nhập khẩu 924.801 tấn thép cuộn cán nguội (loại nguyên liệu sử dụng chủ yếu trong ngành sản xuất ôtô, ống dẫn và nội thất) tăng 57,19% so với năm 2009.

* Ngày 17/08/2012, Bộ Thương mại Thái Lan đã khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm thép cacbon không gỉ cán nguội (Carbon and Stainless Steel Cold Rolled Coils) nhập khẩu từ VN, Trung Quốc và Đài Loan.

Một số thông tin về vụ việc:

Nguyên đơn: Cty JFE Steel và Cty Nippon Steel thuộc Cty Siam United Steel

Sản phẩm bị điều tra: Thép cuộn cán nguội có mã HS bắt đầu: 7209, 7211 và 7225.

Biên độ phá giá bị cáo buộc: VN: 11.86%; Trung Quốc: 11.76%; Đài Loan: 8.76%.

Giai đoạn điều tra: từ tháng 7/2011 đến tháng 6/2012.

* Ngày 13/04/2012, Braxin khởi xướng điều tra đối với sản phẩm thép cuộn không gỉ nhập khẩu từ VN, Nam Phi, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan và Đài Loan.

Nguồn tin: DĐ DN

Read More...

Malaysia bãi bỏ miễn thuế nhập khẩu 18 loại thép (25/01/2013)


Kể từ ngày 1/2/2013, Chính phủ Malaysia sẽ bãi bỏ miễn thuế nhập khẩu cho 18 loại thép, nhằm tái cơ cấu và nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp này.

Trong tuyên bố ra ngày 22/1, Bộ trưởng Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp Malaysia (MITI) Mustapa Mohamed cho biết, chuyển dịch cơ cấu của ngành công nghiệp thép là một vấn đề có "tầm quan trọng quốc gia."

Chính phủ đã kiên quyết làm việc với ngành công nghiệp sắt thép trong nước để làm cho nó trở nên cạnh tranh hơn, đồng thời quyết định thực hiện các đề xuất có nguồn gốc từ một nghiên cứu về ngành công nghiệp do Tập đoàn Tư vấn Boston thực hiện.



Các đề xuất bao gồm các biện pháp để nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn, hỗ trợ tiếp cận các yếu tố đầu vào quan trọng cho ngành công nghiệp, tăng cường năng lực của ngành, cải thiện các tiêu chuẩn và quy trình nhập khẩu và tăng cường các biện pháp phòng vệ thương mại.

Malaysia đã thành lập một hội đồng thép (MSC) do Bộ trưởng MITI đứng đầu để giám sát và chỉ đạo sự phát triển của ngành công nghiệp.

Các thành viên của MSC bao gồm các đại diện từ tất cả các lĩnh vực của ngành công nghiệp cũng như từ Chính phủ.

Bộ trưởng Mustapa cho biết, cả ngành công nghiệp và Chính phủ đều gánh vác "trách nhiệm chung" cho tương lai của ngành. Hai bên sẽ cùng nhau thực hiện các sáng kiến ​​để phát triển ngành hơn nữa.

Bộ trưởng Mustapa cũng khẳng định rằng Chính phủ sẽ có biện pháp thích hợp để thúc đẩy sự phát triển của ngành thép trong nước. Điều này, tuy nhiên, sẽ được thực hiện trong khi tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế của Malaysia để thúc đẩy thương mại tự do và công bằng.

Ông cho biết phương pháp tiếp cận của Chính phủ sẽ tập trung vào việc thực thi các tiêu chuẩn bắt buộc để ngăn chặn các sản phẩm dưới mệnh danh tham gia thị trường và các biện pháp thích hợp sẽ được thực hiện để chống lại các hành vi thương mại không lành mạnh.

"Là một phần của việc tái cơ cấu ngành công nghiệp, 18 loại thép nhập khẩu sẽ chấm dứt việc nhận miễn thuế từ 1/2/2013," ông nói.

Ngoài ra, 30 ngày kể từ ngày thông báo (22/1/2013), Chính phủ cũng sẽ chấm dứt việc cấp Giấy chứng nhận chấp thuận tạm thời (TCOA) và các công ty hiện đang sử dụng TCOA có thể được xem xét để giải phóng mặt bằng nhanh chóng trong thời gian sáu tháng.

Thời gian ân hạn sáu tháng này là để cho phép các công ty thực hiện những điều chỉnh cần thiết trong việc tuân thủ các quy trình sắp xếp hợp lý cho việc nhập khẩu các sản phẩm sắt và thép.

Tất cả các biện pháp này được xây dựng sau khi tham khảo ý kiến và thỏa thuận của tất cả các bên liên quan, ông Mustapa nói, nhấn mạnh rằng để trở thành cạnh tranh hơn, bản thân ngành công nghiệp phải đạt được sức mạnh tổng hợp lớn hơn giữa khu vực thượng nguồn và hạ nguồn.

Thực hiện các biện pháp sẽ tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh và giúp xây dựng năng lực của ngành để đương đầu với những thách thức.

Mustapa cũng trông đợi việc thành lập Viện thép Malaysia (MSI) trong quý 1/2013. MSI sẽ là một thực thể độc lập và có vai trò quan trọng, đặc biệt là trong phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển, xây dựng các tiêu chuẩn và thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho ngành công nghiệp.

Ở cấp độ quốc tế, ông cho biết, vai trò của Chính phủ sẽ được đảm bảo để cho các sản phẩm thép của Malaysia tiếp cận thị trường tốt hơn thông qua các hiệp định thương mại tự do./.

Nguồn tin: Kuala Lumpur (Vietnam+)
Tags: Sắt thép, thép hộp, thép vuông, ống thép, Dịch vụ vệ sinh NVĐ

Read More...